một trà một rượu một đàn bà
Một trà, một rượu, một đàn bà, Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được thứ nào hay thứ ấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà ! ĐỈNH TRÀ | Một trà, một rượu, một đàn bà,
"Một trà, một rượu, một bọn bà. Ba loại lăng loàn nó quấy ta. Chừa được vật dụng làm sao hay vật dụng nấy. Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà." Vậy ta hãy tán gẫu về hồ hết trang bị cơ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng nên mang đến vui: 1- MỘT TRÀ:
Một trà một rượu một đàn bà / Ba cái lăng nhăng nó hại ta / Chừa được cái nào hay cái ấy / Có chăng chừa rượu với chừa trà (Ba thứ lăng nhăng - Tú Xương) Một số bài họa bài thơ trên của Tú Xương: Tam thú bất ly. Một ấm một be với một bà. Thiếu ba thứ ấy bất thành ta. Trai không có rượu cờ sao dựng. Gái muốn thêm canh phải chuốc trà.
Tìm hiểu về các loại Trà: - Xưa nghe người ta nói câu "Một trà, một rượu, một đàn bà / Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta / Chừa được thứ nào hay thứ ấy / Có chăng chừa rượu với chừa trà" Mình cũng có một
Một trà, một rượu, một đàn bà l Ông nội của cháu. Cụ tú Xương xưa có thơ rằng: Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta/ Chừa
interval nada dari nada mi ke la memiliki jarak. “Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ nấy Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.” ************************************* Nếu phải đường đời bằng phẳng hết, Anh hùng hào kiệt có hơn ai. This entry was posted in Tho ca. Bookmark the permalink.
Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người còn tự hào về những thói hư tật xấu của đọc câu chuyện vui sau đây“Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gã lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi- Ông là ai mà đứng trước nhà tôi?Gã lạ mặt trả lời- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui lòng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn đàn ông từ chối- Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh lạ trả lời- Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là gì, thì khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc. Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói - Vậy thì mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều Gã lạ mặt ngạc nhiên - Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn. Người đàn ông nói - Tôi chỉ muốn vợ tôi nhìn thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi! Như ông Tú Vị Xuyên“Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.” Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái Ăn, ngủ, ấy, ể. Những cái khoái của ông Tú là “Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ nấy Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.” Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui 1- MỘT TRÀ Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà thì nghe chồng gọi “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.” Trà là thức uống thanh nhã của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè. Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau Bà vợ ngạc nhiên la lên “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hãi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?” Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay tìm một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta tìm ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn. Trà uống có nhiều cách. Có người tính tình giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào bình rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đã thì thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.” Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. Còn nước giếng thì phải trong, ngọt và không có phèn. Bậc vua chúa uống trà còn cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái lò than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không còn khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái bình bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp bình lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống. Loại bình trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần. Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một mình vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời. Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với mình gọi là đối ẩm. Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra còn trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và còn nhiều nữa. Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ vì vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không còn nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào phòng tắm vét hết số nước còn lại trong một cái xô” đem nấu trà đãi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật gì, cố gắng khạc ra thì là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem thì không có loại trà nào là Ô Lông cả.. Còn một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm. II- MỘT RƯỢURượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản. Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở còn tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho. Bậc vua chúa ngày xưa, đã biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ. Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ chìm. Lã Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lã Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đã ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống dòng sông Dịch chửi thề - Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công thì ông đíu thèm qua sông nầy nữa. Và lần đó Kinh Kha đã hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh. Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu thì chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà còn phải nhập vào linh hồn của rượu nữa. Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu thì có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo. Thứ nhất rượu đã ngà ngà, Thứ nhì chàng ở phương xa mới ở phương xa mới về thì phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. Còn rượu đã ngà ngà thì không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi. Lờ rằng lờ chẳng sợ aiSợ thằng say rượu ấy dai đau lờ. Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. Vì vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say. Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu thì tìm cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon thì chém chết cũng đòi rượu mà đòi rượu coi như sụp bẫy các bà. Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi. Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon thì nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong lòng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự thì còn gì bằng Một ly nhâm nhi tình bạn Hai ly uống cạn lòng sầu Ba ly mũi chảy tới râu Bốn ly ngồi đâu gục đó Năm ly cho chó ăn chè Sáu ly vợ đè cạo gió. Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt Sparkling wine thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v...v... Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đã nói một câu để đời về rượu Champange - Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng. - Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu. Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay chát trắng và loại Pinot noir chát đỏ của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đã hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange còn rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây. Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là - Lứ chía pừng hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? Vì quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái. Ngoài ra còn Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách. Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu thì hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi vòng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra còn rượu Bình tây, rượu nếp than. Sau năm 19 75 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ. Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết. Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền thì uống ngàn chung cũng còn quá ít. “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua là tại không tiền không mua.” III- MỘT ĐÀN BÀNhư trên đã nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn tìm hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn gì để thắt mắc. Ca dao có câu Còn ăn, còn ngủ, còn gân, Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi? Ăn không được, ngủ không được làm gì có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được thì thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà gì cũng có thể bỏ được, còn món đàn bà thì vô phương Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được. Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. Sáng Thế K. 2 21, 22. Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn thì bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn. Nhìn lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa. Còn ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng vì nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng vì cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng vì “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đã nói Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh chìm được con người. Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại“Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại còn được sống trong chế độ ba nuôi Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi.“Nhỏ thì nhờ mẹ nhờ cha, Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.”Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột tìm trâu, tối ngày mò tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn“Chữ trinh đáng giá ngàn vàng Từ anh chồng cũ đến chàng là năm Còn như yêu vụng nhớ thầm Họp chợ trên bụng có trăm con người.”Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ trình của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ trình của các bà thênh thang như xa lộ không đèn. Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm ngaHoạ chăng chừa rượu với chừa TỐ VƯƠNG
Một số bài họa bài thơ trên của Tú Xương Tam thú bất ly Một ấm một be với một bà Thiếu ba thứ ấy bất thành ta Trai không có rượu cờ sao dựng Gái muốn thêm canh phải chuốc trà Canh khuya ôm ấp cái đàn…bà Gảy khúc du dương bạn với ta Sáu nốt nào hay hơn nốt ấy Chùng dây trăng lặn cũng tàn trà Hồ Văn Thiện Chẳng bỏ được Có thú nào hơn…với các bà Đắm say trong suốt cuộc đời ta Rượu ngon hưng phấn lên cao độ Chẳng bỏ được đâu kể cả trà! Lê Trường Hưởng Trót rồi Đã nghiện trà thơm lại thích bà Thêm ly rượu đế mới là ta Loanh quanh tính toán so đo mãi Hết rượu quay ra lại vẫn trà ! Ngô Quốc Lộc Vô đề Một lão say thơ với một bà Trà ngon rượu hũ háu bên ta Phải chăng chưa đủ còn hay nữa Mãi thích tình riêng, chút tửu tràPhó Mộc Đủ Tam Khoanh Đương nhiên khoái nhất vẫn là bà Rượu thuốc cũng là thú của ta Hai thứ dùng e gan phổi hỏng Cho nên đều đặn phải kèm trà Giang Thanh Hà Tam Hạp Tách nóng, bình thơm thêm có bà Còn gì hơn nữa cái đời ta? Cả ba đều gợi lên thi hứng Tình đắm rượu say lại ngấm trà. Chanh Rhum Vẫn ung dung Sao cứ quẩn quanh với một bà Thế thì thua đứt lão gần ta Cụ vơ tay trái thêm hai mớ Mà vẫn say sưa Rượu với Trà Mất Hút Khoảnh khắc quay ra mất hút bà Trăm phần gã ấy nó lừa ta Rủ đi đánh chén rồi bay biến chai rượu nằm trơ cạnh ấm trà Trốn hay là Chánh Yên mời họa chính thơ bà Thiền Hộ đâu cần ngó đến ta Về tận Tú Xương cùng Nguyễn Khuyến Quanh vào chén rượu với chung trà Chiến Anh Không đề Chánh Yên một lúc túm ba bà Đâu có thì giờ ngó đến ta Đành phải đi tìm nhà cụ Tú May ra còn được một tuần trà Thiền Hộ Hoan lạc Chẳng Vương mình cũng thích dăm bà Ấp lạnh, quạt nồng chiều chuộng ta Hủ hỷ cầm kỳ đêm chuốc rượu Hoan ca thi họa ngày nâng trà! Gió... Tam nhiễm Sắc nhiễm đầu tiên bởi quí bà Tửu hương còn đắm hại đời ta Nhất nhì đeo phải đà gian khổ Tam vẫn luôn đây ngụm tách trà Nam Khánh Luật đời Nửa cuộc đời là “ông hoặc bà” Thú vui đệ nhất Chúa ban ta. Âm dương hòa hợp thành viên mãn Muốn có thơ thêm thuốc - rượu - trà ! Ngũ vị Tú Xương nịnh vợ gọi là Bà “Nuôi đủ năm con với một ta” 1 . Thơ phú,cô đầu ông thích tuốt Lẽ nào từ vị rượu và trà ? Nửa mất... khó thay Chưa mãn cuộc đời đã mất “bà” Ông xanh sao nỡ hại riêng ta. Đã chừa thuốc lá từ lâu lắm Còn chút niềm vui THƠ, rượu, trà ! Phạm Minh Khôi
Có thể theo bút pháp trào phúng mà trong bài thơ “Ba cái lăng nhăng”, nhà thơ Tú Xương nói chơi chứ không phải nói thật “Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta/ Chừa được cái nào hay cái nấy”. Ba câu này là kể, kể những cái “nhiêu khê” theo sắc thái hài hước. Người đọc băn khoăn hào hứng chờ nhà thơ “chừa” cái gì..., thì bất ngờ, là chừa cái sự “không nói ra” “Có chăng chừa rượu với chừa trà”. Thế là cả “ba cái” chưa hẳn đều “lăng nhăng”!? Tự trào Nguyễn Khuyến! Không chỉ là “nghệ thuật băm thịt gà”!? Bài viết xin chọn chứng minh “trà” như một chủ đề trong văn học nước ta. Theo học giả Đào Duy Anh, trong chữ Hán, “trà” là chè nói chung, nhưng trong tiếng Việt thì “trà” là chè cao cấp nên có “chè tười” lá chè tươi mà không có “trà tươi”. Thời trung đại, ngoài thơ Thiền, trà được nói nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Bài “Ngẫu thành” là cảnh sinh hoạt “Mây tỏa đầy nhà, mai đốt bách/ Tùng reo quanh gối, tối đun trà”. Sáng sớm mai đốt gỗ bách sưởi ấm nên có cảm giác “mây tỏa đầy nhà”. Buổi chiều có tiếng cây tùng reo quanh gối. Tối đến nổi lửa đun trà. Trong bài “Mạn hứng” là cảnh “Quét tuyết đun trà bên trúc ổ/ Đốt hương đọc sách dưới mái hiên”. Trong một bài thơ chữ Hán khác ông nói lấy chè trà làm phương tiện “rửa sạch lòng trần”. Ước mơ bình dị của bậc đại nhân, đại trí ấy lại chỉ là “Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây/ Để múc nước khe nấu chè và gối đá ngủ” Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác. Đấy là trong “Ức Trai thi tập”, thơ chữ Hán, trong thơ Nôm “Quốc âm thi tập”, chè trà được nói tới nhiều hơn. Chùm bài “Ngôn chí” có những câu “Cởi tục chè thường pha nước tuyết/ Tìm thanh trong vắt tịn chè mai”. “Tịn” tiếng cổ, có nghĩa là “tận”, là hết. “Tịn chè mai” là hết chè hồng mai rồi nên phải thay chè bằng “nước tuyết”, ý nói cuộc sống nghèo lấy cái thanh cao làm trọng. Lại có câu “Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng” tức ban đêm dậy uống chè hồng mai thưởng trăng. Trong chùm bài “Thuật hứng” có hai lần nói tới “chè tiên” “Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về” và “Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt”. “Chè tiên” là chè gì? Theo chú giải của Đào Duy Anh thì “tiên” nghĩa là nấu, “chè tiên” là đun, nấu nước chè trà. Chữ “tiên” nghĩa là nấu này đến nay hầu như không còn dùng. “Ghín” từ cổ nghĩa là gánh. Câu thơ tả cảnh gánh nước đêm về nấu chè nên ánh trăng in vào thùng, gánh nước cũng như gánh cả trăng nguyệt đeo về! Đối ẩm! Như vậy Nguyễn Trãi ưa dùng chè và thường dùng vào buổi tối, ban đêm. Khác với tập quán sau này của nhiều người uống chè vào buổi sớm Bình minh sổ chản trà. Hai câu quen thuộc của ông nói về chè, nhiều người thuộc “Say mùi đạo, chè ba chén/ Tả lòng phiền, thơ bốn câu” “Thuật hứng 13”. Ở đây là một quan niệm mượn thú uống chè trà để suy ngẫm về đời, về “đạo” có thể hiểu là đạo lý, đạo trời, đạo nhân.... Liệu có khỏi suy diễn khi coi Nguyễn Trãi là người đầu tiên ở xứ ta nâng thú uống trà lên thành “đạo” trà đạo?! Cùng một quan niệm về sứ mệnh thơ ca nói lên tâm trạng lòng người. Chùm thơ cho biết Nguyễn Trãi làm khi về ở ẩn đầy tâm trạng phiền não nên lấy trà làm phương cách giải khuây. Chắc được dùng trà trồng ở nhiều nơi nên trong “Dư địa chí” ông viết tại châu Sa Bôi Quảng Trị có loại trà lưỡi sẻ tước thiệt rất thơm ngon. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có ba lần nói về chè trà. Khi Kim Trọng tương tư “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”. Khi Thúc Sinh mặn nồng với Kiều “Khi hương sớm, khi trà trưa/ Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”. Kết thúc cuộc tình với Thúc Sinh, Kiều phải vào Quan Âm Các “áo xanh đổi lấy cà sa”, có hai thị nữ trông nom “Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà”. “Hương trà” có thể hiểu là dâng trà khi tụng kinh niệm Phật!? Như vậy “trà” cũng được Nguyễn Du coi như một nét thi pháp để miêu tả hoàn cảnh, phân tích tâm lý nhân vật. Trong cái hoàn cảnh, tâm trạng Kim Trọng “Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng” về “bóng hồng” Kiều thì “trà khan giọng tình” như thổn thức, dằn vặt, trăn trở, muốn nói ra mà không/ chưa nói được... là tuyệt hay! Trong “Vũ trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ 1768-1839 tả việc uống trà ở xứ Bắc thời Cảnh Hưng thật tốn kém “Các nhà quý tộc, công hầu, con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ. Có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lượng bạc…”. Đúng với tính chất ghi chép mà ông kể khá tỉ mỉ về đồ uống trà, như “chén uống chè cốt cho nhỏ mỏng, khi pha mới nổi hương vị. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt dĩa phẳng thì đặt chén không nghiêng. Đế lò dầy mà lỗ thưa thì than lửa không bốc nóng quá. Lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi…” Lê Quý Đôn 1726-1784 có dịp vào Phú Xuân Huế mà tả cảnh uống trà “Binh lính cũng đều ngồi chiếu mây, có gối dựa. Bên cạnh đặt lư đồng, pha chè Tàu ngon để uống, dùng chén sứ bịt bạc, ống nhổ bằng thau” “Phủ Biên tạp lục”. Trong văn học hiện đại, người nói hay, nói kỹ nhất về trà là Nguyễn Tuân. Đúng với phong cách đi tìm cái đẹp ở những cái kỳ lạ, trong “Vang bóng một thời” nhà văn tả thú thưởng trà như là một nghệ thuật sống. Trước hết phải có ấm “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bột, thứ ba Mạnh Thần”. Đặt lên chậu nước, nếu ấm nổi thì đúng là của Tàu... Chiếc ấm chuẩn phải hình quả sung, màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Ấm hình quả sung hay quả đào... cũng không được to quá, chỉ như nắm tay trẻ lên năm, đủ ba chén nhỏ. Vì to, nhiều nước thì mất hơi chè. Thế nên “chè tam” là vậy, ba chén, ba người uống. Không như uống rượu rượu tứ bốn người “thù tạc” đủ vai. Hơn nữa uống chè ngồi ba, vì còn “một chỗ” là vị trí để bếp và ấm đun trà. Cụ Nguyễn Trãi viết “Say mùi đạo, chè ba chén” là vậy, vừa hết một ấm chè, và cũng vừa đủ. Uống nhiều thì không phải uống trà. Uống rượu thì hơi men bốc lên, có khi mặt đỏ phừng phừng. Càng say càng muốn uống. Uống trà thì hương trà chảy ngược vào trong, phải chậm rãi, nhẹ nhàng, tâm phải thanh, lòng phải tịnh. Uống từng chút một, không còn là uống nữa mà là “thưởng”, thưởng trà...!!! Chè ba chén...!!! Quan trọng thứ hai là nước để pha trà. Không được là nước máy. Phải là nước mưa hoặc nước giếng khơi. Hoặc cho thuyền nhỏ ra giữa sông to múc về đủ dùng. Tuyệt nhất là bằng nước sương đọng trên lá sen. Tờ mờ sáng chèo thuyền thúng ra hồ để gạn từng giọt sương lóng lánh như những giọt thủy ngân đọng trên lá. Có người còn cho trà vào cánh hoa sen ướp từ tối hôm trước... Nước pha trà đun khi nào nổi tăm mắt cua là được không được để nổi tăm mắt cá… Chất cổ điển trong văn Nguyễn Tuân là đủ cả cái “kỳ” và cái “xảo”. “Kỳ” là kỳ nhân người lạ, kỳ vật vật lạ, kỳ thú thú chơi lạ... “Xảo” là tinh tế, tinh xảo, công phu “Nghề chơi cũng lắm công phu”. Một nhân vật người ăn mày của Nguyễn Tuân hội đủ cái “kỳ” cái “xảo” này... Có một người ăn mày “cổ quái” toàn vào xin những nhà đại gia và cố giáp được mặt chủ nhân rồi có xin gì mới xin. Lần ấy đến xin nhà phú hộ giữa lúc chủ nhà cùng một vài khách đang ngồi dùng trà sớm. Chủ nhân hỏi hắn xin cơm thừa hay canh cặn. Hắn gãi tai, lễ phép xin chủ nhân cho được uống trà. Được phép, hắn xin muốn uống nguyên một ấm trà mới. Hắn giở cái bị ăn mày ra, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm… Bỗng chốc, từ thân phận ăn mày, người đó như trở thành một tiên ông vượt ra khỏi không gian, thời gian thực tại để đến nơi tiên giới. Người ta mới thấy đây đích thực là người sành trà, ung dung, tự tại, thong dong, khuôn mặt trong sáng thánh thiên như tiên như Phật, không chút bợn trần... Uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo mắt, chép môi đứng dậy, chắp tay và thưa “bình trà của ngài lẫn mùi trấu ở trong”. Hắn đi, cả nhà giật mình kinh sợ vì, ở lọ trà có đến mươi mảnh trấu... Lứa sau Nguyễn Tuân, nhà thơ Phùng Cung có mấy câu thơ để đời về trà “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không đổi giọng Tân Cương”. Tả trà nhưng ý nghĩa thì vượt ra ngoài hình tượng. Có thể hiểu con người ta nghệ sĩ phải như thứ trà ngon từng trải qua cái xót xa đau đớn ở đời nhưng vẫn giữ được bản lĩnh không đổi giọng mới có thể đóng góp cái hương vị riêng của mình!? Ngày nay khoa học dinh dưỡng cho biết trà xanh giúp sảng khoái, làm tăng sự tỉnh táo, giảm nguy cơ ung thư, giúp diệt khuẩn, cải thiện sức khỏe răng miệng... Người Nhật Bản xem trà là một thứ “đạo” trà đạo như là một nghệ thuật sống, một sinh hoạt văn hóa, một thú vui tao nhã, di dưỡng tinh thần, tu tâm dưỡng tính. Thậm chí còn coi như là một tôn giáo truyền dạy đạo lý răn dạy ý nghĩa ở đời và làm người!
Một điều khoái hoạt vào loại nhất trong cuộc đời có nhiều vụn vặt của những đàn ông, đó là uống rượu. Đại thi hào của người Việt là cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến tuy tưng tửng đùa nhưng vẫn trân trọng ghi nhận. Một rượu một trà một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó hại ảnh trắng đen sờn cũ cuối thế kỷ XIX, chụp cụ Nguyễn đang rưng rưng cầm trong tay một chén rượu nhỏ hạt mít, được rất nhiều nhiếp ảnh gia đương đại coi là mẫu mực của thể loại ảnh chân dung. Theo truyền ngôn, một nam danh sĩ ở thời Thịnh Đường bên Trung Quốc, chết vì uống rượu quá nhiều, trong một lúc hiếm hoi tỉnh cũng đã mạnh dạn đưa ra một list “tứ đại đô ping” cho giới mày râu. Tửu, Sắc, Yên, Đổ. Nôm na đại loại là, rượu chè, trai gái, hút hít, cờ bạc. Văn hoá bình dân tái công nhận điều này bằng thuật ngữ “tứ đổ tường". Và đương nhiên, trong cái sự sập nhà không cần bão ấy, rượu chiếm ngôi vị quán điều kha khá lạ lùng là trong giới văn nghệ sĩ khi tới lúc mệt mỏi tận cùng của văn chương, của sân khấu, của điện ảnh thì hay buông bút lui về cầm chén. Rồi cũng không hẳn vì mưu sinh, bỗng một ngày thanh thản náo nức mở tửu quán. Việc mở quán thường hay rơi vào văn sĩ hoặc nhạc sĩ. Quán của văn nhân rượu thì ngon nhưng đồ mồi thì dở. Quán của nhạc nhân hình như ngược lại, món nhắm không tệ nhưng rượu đôi khi rất tồi hôm rồi, nhiều người sành uống có được mời đến quán rượu của nhạc sĩ tha hương gốc HàNộiPhúQuang. Nhạc sĩ mớimở một tửu lầu ở giữa đoạn phố nhỏ chính lòng Thủ Đô. Không hiểu sao rượu và đồ uống đều đột ngột tuyệt ngon, có người lành và sành mồm cho rằng hôm đó là ngày khai quán.Đàn ông mà biết uống rượu thì từ xưa đến nay cũng không có nhiều, bởi rượu là thứ đờ uống tuyệt đối khó tính. Thể chất rượu tuy tinh thuần nhưng khí độ của nó lại nồng nàn đậm. Hoặc quá chén hoặc lỡ chén đều dễ xảy ra vô số lầm lỗi,có kẻ đa tình sau khi uống thì bị mất người yêu như nhân vật Hoàng trong tiểu thuyết "Cơ hội của Chúa”. Có bậc vương giả sau khi uống thì bị mất nước. Trần Hậu Chủ một ông vua bên Tàu là người như vậy. Ông này đa tài cái thiếu duy nhất là lài trị nước, là tác giả chưa bao giờ đạo nhạc của hai điệu khúc khét tiếng có ca từ gây sốc "Ngọc Thụ” và "Hậu Đình Hoa". Khi quân nhà Tuỳ áp sát kinh thành. Hậu Chủ vẫn bất cần cùng quần thần và mỹ nữ dâm dật bét nhè nốc rượu. Tuy nhiên, nếu phải so với HoằngQuan, vua nhà mạt Minh thì Trần Hậu Chủ chưa là cái đinh gì. Ông này chỉ hiếu tửu, khi thua trận bỏ Yên Kinh chạy loạn xuống phía Nam, buồn đờiphẫn chí liên miên uống liền tù tì 24/24. Trước khi mất vì viêm gan một căn bệnh rất đặc trưng của đám tửu đồ, nó độc đáo độc quyền độc vị y như cứ nhắc đến quan chức là hầu hết phải nhắc đến tham nhũng, vị tửu vương này để lại một cặp câu đáng gọi là tuyệt cú. “Vạn sự hà như bôi tại thủ. Bách niên kỷ kiến nguyệt đương đầu”. Một ba ten đờ hành nghề pha rượu ở Khách sạn năm sao thời nay đã hoang mang dịch. “Mọi sự sướng nhất, tay cầm chén. Mấy khi trăng chiếu đúng đỉnh đầu”. Rượu có hại như vậy nên trong thanh quy giới luật của rất nhiều tôn giáo đều có giới tửu. Giới này phải nghiêm ngặt giữ y như giới nhưng rượu cũng như mỹ nhân, thoạtnhìn lỗi thì lớn nhưng sâu xa thì hoàn toàn trinh bạch vô tội. Rượu giống đạo lý ở chỗ không rõ hình hài. Nó thiên biến vạn hoá lộ diện vào phong thái của người uống. Nhân cách mà thanh cao thì rượu thanh cao. Tư cách mà dung tục thì rượu dung tục. Không phải ngẫu nhiên trong sự cúng kính Trời Đất hoặc tế lễ tổ tiên thì rượu là thứ bắt buộc phải dùng. Hương rượu tuy nồng nhưng không ô trọc. Chấtrượu tuy đạm nhưng không bợn đầy. Uống đủ lượng rượu không những lời hay ý đẹp lâng lâng tràn ngập mà tâm can đột ngột tiêu sái chân thành cởi mở. Đáng nhẽ chỉ đọc một đoạn thi thì bỗng phừng phừng hứng chí ngâm hết cả một trường ca dài tới câu lục đây quý bà, quý cô thường lo lắng là đàn ông Việt đang uống rượu nhiều quá, nhưng chắc chắn họ sẽ lo hơn khi tất thảy chồng của họ, người tình của họ lũ lượt rủ nhau đi uống sữa.
một trà một rượu một đàn bà